Thứ Hai, 22 tháng 10, 2012

Xỳ- tin mỗi thời, có gốc và chả cần có gốc. Chỉ là ám hiệu, ký hiệu, biểu tượng để ai cũng hiểu, có khi chả cần ai hiểu, quan trọng phải chảnh cỡ cá cảnh

Cử chỉ để hiểu nhau giữa con người hầu như có gốc, xuất phát từ thực tiễn, được đơn giản, hình tượng hoá thành quen,

1. Bắt tay
Con người biết bắt tay nhau từ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên. Nó phổ biến vì nhu cầu chứng minh đến với nhau không mang vũ khí.

Cử chỉ này nay như lời chào, thể hiện sự thân thiện và sẵn sàng hợp tác.

Giơ tay hàng cũng thế, là cử chỉ báo đã hạ vũ khí rồi. 

2. Hai ngón tay chữ V

Các cung thủ người Anh lần đầu tiên ra dấu này sau trận chiến Agincourt năm 1415 với quân Pháp.
Thoạt đầu giơ hai ngón hình chữ V là báo hiệu hai ngón tay của họ vẫn còn, chưa bị lính Pháp chặt đứt như lời doạ, để không còn giữ được mũi tên khi bắn cung.

Sống sót và lành lặn, không bị đối phương cắt ngón, là thắng lợi rồi. Được dùng nhiều, sau được giải thích là ra dấu chữ V trong Victory, tức chiến thắng. 

3. Giương ngón cái 

Cử chỉ này được cho bắt nguồn từ Roma. Các trận đấu sỹ thắng đối thủ, chờ tín hiệu trên khán đài của hoàng đế hoặc đại quan có mặt. Nếu ngón cái chỉ lên trên, là tha. Nếu chỉ xuống dưới, đánh tiếp, tới chết.

Nay thông dụng toàn cầu, như nút Like trên Facebook, thích hoặc không thích.

Với người Nga, giương ngón cái được hiểu là “số 1”, tốt, được… giống OK. Nhưng với người Arabia, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, giương thế lại là xỉ vả, văng “của quý” vào mặt…, tương tự phương Tây chỉ bằng “ngón tay thối”, tức ngón giữa.

4. Giơ tay lên mũ chào

Tập tục này bắt nguồn từ một hòn đảo nước Anh. Trong quân đội lúc đó lính chào quan bằng cách cởi mũ. Thế kỷ 18-19, trang phục mũ nón cồng kềnh, chào cũng được đơn giản hoá thủ tục bằng cách giơ tay chạm vào lưỡi trai của mũ, coi như đã cởi mũ.

Phải có mũ mới giơ tay lên chào là luật. Nay các chính trị gia cải tiến thêm: chào không cần mũ, cứ giơ tay lên đầu trần là xong. 

5. Hãy gọi cho tôi

Thời điện thoại di động phổ biến, ra hiệu hãy gọi cho tôi cứ như đang cầm loại điện thoại bẻ ra làm cục nói. 

Ngón cái làm cục nghe áp vào tai, ngón út làm cục nói kề vào miệng, kệ các loại phone thời nay hay phone thông minh chỉ có một cục. 

6. Ok

OK trở thành ngôn ngữ và ký hiệu toàn cầu, ai cũng hiểu, viết, nói được. Nguồn gốc có nhiều giả thuyết.

Một giả thuyết cho là Tổng thống Mỹ thứ tám Martin Van Buren, có bí danh là Old Kinderhook, khi tranh cử năm 1840 dùng cụm từ Old Kinderhook is O.K làm slogan quảng cáo.

Một giả thuyết khác: All Correct trong tiếng Anh, và Oll Korrect, tắt là OK, theo tiếng Đức. 

Nghĩa và phát âm như nhau nhưng viết hơi khác. Người Anh coi Oll Korrect là cách viết sai chính tả, đến cả trên báo Boston năm 1839 cũng viết sai như thế, thành trò tiếu lâm và tiện. Thành OK và OK thật tiện, chả ai nhớ viết AC nữa.

Ám hiệu như thoả thuận ngầm, ai cũng hiểu. Có khi chả cần hiểu mà vẫn hiểu. Chả hạn khi chụp ảnh, đưa tay chữ V mà sọc vào mắt hay vào má, chúm chím nghiêng đầu… Chảnh phải cỡ cá cảnh.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét